Dries Mertens
Mertens với Bỉ tại FIFA World Cup 2018 | |||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Dries Mertens | ||||||||||||||||
Chiều cao | 1,69 m (5 ft 7 in) | ||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ cánh | ||||||||||||||||
Thông tin đội | |||||||||||||||||
Đội hiện nay | Galatasaray | ||||||||||||||||
Số áo | 10 | ||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||
1996–1998 | Stade Leuven | ||||||||||||||||
1998–2003 | Anderlecht | ||||||||||||||||
2003–2005 | Gent | ||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||
2005–2007 | Gent | 0 | (0) | ||||||||||||||
2005–2006 | → Eendracht Aalst (cho mượn) | 14 | (4) | ||||||||||||||
2006–2007 | → AGOVV (cho mượn) | 35 | (2) | ||||||||||||||
2007–2009 | AGOVV | 73 | (28) | ||||||||||||||
2009–2011 | Utrecht | 69 | (17) | ||||||||||||||
2011–2013 | PSV | 62 | (37) | ||||||||||||||
2013–2022 | Napoli | 295 | (113) | ||||||||||||||
2022– | Galatasaray | 0 | (0) | ||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||
2004 | U-17 Bỉ | 4 | (0) | ||||||||||||||
2011–2022 | Bỉ | 109 | (21) | ||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 21 tháng 3 năm 2021 |
Dries Mertens (phát âm tiếng Hà Lan: [ˈdris ˈmɛrtə(n)s], sinh ngày 6 tháng 5 năm 1987) là cầu thủ tiền vệ cánh người Bỉ hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Galatasaray tại Süper Lig.
Trước khi đến Napoli, Mertens đã từng thi đấu cho các câu lạc bộ K.A.A. Gent, Eendracht Aalst, AGOVV Apeldoorn, FC Utrecht và PSV Eindhoven.
Anh là thành viên đội tuyển Bỉ tham gia các giải đấu lớn World Cup 2014, Euro 2016, World Cup 2018, Euro 2020 và World Cup 2022.
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Các đội trẻ
[sửa | sửa mã nguồn]Mertens từng gia nhập học viện đào tạo bóng đá của câu lạc bộ quê nhà Stade Leuven và sau đó là Anderlecht. Tuy nhiên, huấn luyện viên đội trẻ của Anderlecht đánh giá anh không đủ chiều cao và sức mạnh để trở thành cầu thủ chuyên nghiệp dù có kỹ thuật rê dắt và sút bóng nên Merterns đã đến Gent.[1]
Tại Gent, ban huấn luyện câu lạc bộ này tiếp tục có đánh giá tương tự như Anderlecht. Do đó, Gent đã cho câu lạc bộ tại giải hạng ba Bỉ là Eendracht Aalst mượn anh và cuối mùa bóng 2005-06, anh được bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Eendracht Aalst.[1] Tuy nhiên điều này vẫn không giúp Mertens được tiếp tục thi đấu cho Gent và anh phải đến Hà Lan thi đấu cho câu lạc bộ AGOVV Apeldoorn.
AGOVV và Utrecht
[sửa | sửa mã nguồn]Tại AGOVV, anh trở thành trụ cột của đội bóng này tại giải hạng nhì Hà Lan với vai trò đội trưởng. Năm 2009, anh được trao giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất giải hạng nhì Hà Lan.[2] Ngày 25 tháng 5 năm 2009, câu lạc bộ thi đấu tại Eredivisie FC Utrecht đã hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng Mertens với AGOVV bằng mức phí chuyển nhượng 600.000 €. Anh rời AGOVV với 28 bàn thắng sau 103 trận.[3] Mertens thi đấu cực kỳ thành công trong màu áo Utrecht tại mùa giải mùa giải 2010-11 với 13 bàn thắng và 17 đường kiến tạo thành bàn.[4] Anh chỉ đứng sau tiền đạo Luis Suárez của Ajax Amsterdam trong cuộc bầu chọn Cầu thủ xuất sắc nhất Eredivisie mùa giải đó.[5]
PSV Eindhoven
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 28 tháng 6 năm 2011, Mertens và người đồng đội tại Utrecht là Kevin Strootman đồng thời chuyển đến thi đấu cho PSV Eindhoven với mức chuyển nhượng tổng cộng là 13 triệu €.[6]
Mertens có hat-trick đầu tiên cho PSV vào ngày 28 tháng 8 năm 2011 trong trận đấu với Excelsior.[7] Sau đó, anh ghi đến bốn bàn trong chiến thắng hủy diệt 7-1 trước Roda JC ngày 24 tháng 9 năm 2011.[8] Đến tháng 1 năm 2012, Mertens đã có 13 bàn thắng và 11 đường chuyền kiến tạo ở Eredivisie, đóng góp gần 50% trong số 48 bàn thắng của PSV tại Eredivisie. Kết thúc mùa giải đầu tiên cho PSV, anh có 21 bàn thắng sau 33 trận tại Eredivisie[9] và ghi bàn trong trận chung kết Cúp KNVB với Heracles Almelo để đem về chiến thắng 3-0 chung cuộc cho PSV.[10] Tháng 8 năm 2012, anh cùng PSV giành tiếp chức vô địch Cúp Johan Cruyff (Siêu cúp bóng đá Hà Lan).
Ngày 30 tháng 9 năm 2012, Mertens và Jürgen Locadia mỗi người lập một hat-trick giúp PSV đánh bại VVV Venlo 6–0.[11] Trong hai mùa giải thi đấu cho PSV, anh ghi được 45 bàn thắng và có 43 pha kiến tạo thành bàn trong 88 trận đấu.[12]
Napoli
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 24 tháng 6 năm 2013, câu lạc bộ PSV Eindhoven xác nhận Mertens đã chính thức gia nhập Napoli theo bản hợp đồng năm năm với giá trị chuyển nhượng 9,5 triệu € và cũng là cầu thủ đầu tiên mà Rafael Benítez mang về trên cương vị tân huấn luyện viên trưởng của Napoli.[13] Anh có trận đấu đầu tiên tại Serie A vào ngày 25 tháng 8 năm 2013 trong chiến thắng 3-0 trước Bologna.[14] Bàn thắng đầu tiên của anh cho Napoli diễn ra vào ngày 30 tháng 10, ấn định chiến thắng 2-1 trước Fiorentina.[15] Ngày 6 tháng 1 năm 2014, Mertens lập cú đúp trong hiệp hai giúp Napoli đánh bại Sampdoria 2-0.[16] Anh ghi bàn ấn định chiến thắng 2-0 trước đội đầu bảng Juventus vào ngày 30 tháng 3.[17] Trong trận chung kết Cúp quốc gia Ý 2013–14 ngày 3 tháng 5 năm 2014, Mertens vào sân từ băng ghế dự bị thay cho Marek Hamšík ở phút 64 đã giúp Napoli bảo đảm chiến thắng bằng bàn nâng tỉ số lên 3–1 trước Fiorentina.[18]
Anh có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2014-15 với cú đúp vào lưới Sparta Praha để đem về chiến thắng mở màn cho Napoli tại UEFA Europa League 2014-15.[19] Đến trận đấu cuối cùng của vòng bảng với Bratislava, anh là người mở tỉ số trong chiến thắng chung cuộc 3-0 của Napoli để giúp đội bóng Ý kết thúc vòng bảng với vị trí nhất bảng.[20] Ngày 18 tháng 5 năm 2015, Mertens có cú đúp trong trận thắng 3-2 trước Cesena để giúp Napoli duy trì vị trí tham dự UEFA Champions League mùa giải sau[21] nhưng thất bại trước Juventus và Lazio ở hai vòng đấu sau cùng đã đẩy Napoli xuống hạng 5 chung cuộc nên mất suất.
Napoli khởi đầu UEFA Europa League 2015-16 với thắng lợi 5-0 trước Club Brugge, trong đó Mertens ghi được hai bàn thắng. Anh tiếp tục có cú đúp nữa tại giải đấu này trong trận thắng 5-2 trước Legia Warsaw ngày 10 tháng 12 năm 2015.
Trong trận đấu đầu tiên của Napoli tại Serie A 2016-17 với Pescara, Mertens ghi được hai bàn thắng chỉ trong vòng ba phút để giúp Napoli giành lại 1 điểm. Tại trận đấu thứ hai vòng bảng UEFA Champions League 2016-17 với Benfica ngày 28 tháng 9 năm 2016, anh lập được cú đúp, trong đó có một quả sút phạt trực tiếp đẹp mắt để đem về chiến thắng 4-2 cho Napoli.[22]
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 1 tháng 10 năm 2010, Mertens được triệu tập vào đội tuyển Bỉ tham dự hai trận đấu vòng loại Euro 2012 với Kazakhstan và Áo bởi huấn luyện viên Georges Leekens.[23] Nhưng phải đến ngày 9 tháng 2 năm 2011 anh mới có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Bỉ trong trận giao hữu với Phần Lan.
Bàn thắng đầu tiên của anh cho đội tuyển Bỉ cũng đến trong một trận giao hữu, trận đấu với Hà Lan ngày 15 tháng 8 năm 2012 và chung cuộc Bỉ đã thắng 4-2.[24]
World Cup 2014
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 13 tháng 5 năm 2014, anh được triệu tập vào đội hình đội tuyển Bỉ tham dự World Cup 2014 tại Brasil.[25] Anh đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu giao hữu trước giải đấu với Tunisia.[26] Tại trận mở màn của đội tuyển Bỉ tại World Cup 2014 với Algeria tại Belo Horizonte, Mertens vào sân thay cho Nacer Chadli đã ấn định chiến thắng chung cuộc 2-1 cho đội tuyển Bỉ ở phút thứ 80 của trận đấu.[27] Tuyển Bỉ sau cùng đã vào đến tứ kết của giải đấu trước khi để thua Argentina với tỉ số tối thiểu 0-1 bằng bàn thắng duy nhất của tiền đạo Gonzalo Higuain.
Euro 2016
[sửa | sửa mã nguồn]Anh tiếp tục được huấn luyện viên Marc Wilmots triệu tập tham dự Euro 2016 trên đất Pháp. Tại giải đấu này, anh không ghi được bàn thắng nào nhưng đã có những đường kiến tạo thành bàn để giúp Bỉ lọt vào tứ kết và thua xứ Wales với tỉ số 1-3. Cá nhân Mertens không để lại dấu ấn gì.
World Cup 2018
[sửa | sửa mã nguồn]Đây là giải đấu quốc tế lần thứ hai trong sự nghiệp của Mertens. Ở lượt trận đầu bảng G gặp tân binh Panama, anh là người bàn thắng mở tỉ số trước và chung cuộc Bỉ thắng Panama với tỉ số 3-0. Đội tuyển Bỉ sau đó kết thúc giải với vị trí thứ ba chung cuộc.
Sau kì World Cup 2022 không thành công của đội tuyển Bỉ khi bị loại ngay từ vòng bảng, Dries Mertens chính thức chia tay đội tuyển quốc gia sau 11 năm gắn bó, tổng cộng anh đã thi đấu 109 trận và ghi được 21 bàn thắng.
Phong cách thi đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Mertens là cầu thủ thuận chân phải nhưng chủ yếu thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh trái với khả năng ghi bàn tốt. Mặc dù chiều cao chỉ có 1,69m, nhưng nhờ trọng tâm thấp, Mertens có khả năng khống chế bóng tốt và tốc độ để vượt qua đối phương.[28] Phong cách dứt điểm của Mertens có thể so sánh với tiền vệ người Hà Lan Arjen Robben ở điểm từ cánh ngoặt bóng vào bên trong rồi tung ra những cú sút.[9] Điểm mạnh khác của Mertens là khả năng kiến tạo với những đường chuyền dài hoặc những pha phối hợp bật tường. Anh cũng là một chuyên gia xử lý bóng chết.[2]
Điểm yếu của anh là khả năng phòng ngự do thiếu khả năng tắc bóng cũng như đánh chặn và là một vấn đề khi đội bóng của anh đối đầu với các đội mạnh hơn.[2]
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Cập nhật: 21 tháng 3 năm 2021.[29]
Câu lạc bộ | Mùa bóng | Giải vô địch quốc gia | Cúp quốc gia | Cúp châu Âu | Tổng cộng | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | ||
Eendracht Aalst | 2005–06 | 14 | 4 | 0 | 0 | – | 14 | 4 | |
AGOVV Apeldoorn | 2006–07 | 35 | 2 | 0 | 0 | – | 35 | 2 | |
2007–08 | 38 | 15 | 0 | 0 | – | 38 | 15 | ||
2008–09 | 35 | 13 | 2 | 1 | – | 37 | 14 | ||
Tổng cộng | 108 | 30 | 2 | 1 | 0 | 0 | 110 | 31 | |
Utrecht | 2009–10 | 34 | 6 | 5 | 1 | – | 39 | 7 | |
2010–11 | 31 | 10 | 4 | 1 | 12 | 3 | 47 | 14 | |
Tổng cộng | 65 | 16 | 9 | 2 | 12 | 3 | 86 | 21 | |
PSV | 2011–12 | 33 | 21 | 5 | 3 | 11 | 3 | 49 | 27 |
2012–13 | 29 | 16 | 4 | 1 | 6 | 1 | 39 | 18 | |
Tổng cộng | 62 | 37 | 9 | 4 | 17 | 4 | 88 | 45 | |
Napoli | 2013-14 | 33 | 11 | 4 | 2 | 10 | 0 | 47 | 13 |
2014-15 | 31 | 6 | 5 | 0 | 15 | 4 | 51 | 10 | |
2015-16 | 33 | 5 | 2 | 1 | 5 | 5 | 40 | 11 | |
2016–17 | 35 | 28 | 3 | 1 | 8 | 5 | 46 | 34 | |
2017-18 | 38 | 18 | 2 | 1 | 9 | 3 | 49 | 22 | |
2018–19 | 35 | 16 | 1 | 0 | 11 | 3 | 47 | 20 | |
2019–20 | 31 | 9 | 3 | 1 | 8 | 6 | 42 | 16 | |
2020–21 | 18 | 7 | 2 | 0 | 7 | 1 | 27 | 8 | |
Tổng cộng | 254 | 100 | 22 | 6 | 73 | 27 | 349 | 133 | |
Tổng cộng sự nghiệp | 507 | 188 | 38 | 12 | 102 | 34 | 647 | 234 |
Bàn thắng đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]- Bàn thắng và kết quả của đội tuyển Bỉ được để đầu tiên
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 15 tháng 8 năm 2012 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Hà Lan | Giao hữu | ||
2. | 6 tháng 2 năm 2013 | Sân vận động Jan Breydel, Bruges, Bỉ | Slovakia | |||
3. | 7 tháng 6 năm 2014 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Tunisia | |||
4. | 17 tháng 6 năm 2014 | Mineirão, Belo Horizonte, Brasil | Algérie | World Cup 2014 | ||
5. | 4 tháng 9 năm 2014 | Sân vận động Sclessin, Liège, Bỉ | Úc | Giao hữu | ||
6. | 10 tháng 10 năm 2014 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Andorra | Vòng loại Euro 2016 | ||
7. | ||||||
8. | 13 tháng 10 năm 2015 | Israel | ||||
9. | 10 tháng 10 năm 2016 | Sân vận động Algarve, Faro/Loulé, Bồ Đào Nha | Gibraltar | Vòng loại World Cup 2018 | ||
10. | 12 tháng 11 năm 2016 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Estonia | |||
11. | ||||||
12. | 9 tháng 6 năm 2017 | A. Le Coq Arena, Tallinn, Estonia | ||||
13. | 31 tháng 8 năm 2017 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Gibraltar | |||
14. | 11 tháng 6 năm 2018 | Costa Rica | Giao hữu | |||
15. | 18 tháng 6 năm 2018 | Sân vận động Olympic Fisht, Sochi, Nga | Panama | World Cup 2018 | ||
16. | 16 tháng 10 năm 2018 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Hà Lan | Giao hữu | ||
17. | 8 tháng 6 năm 2019 | Kazakhstan | Vòng loại Euro 2020 | |||
18. | 6 tháng 9 năm 2019 | Sân vận động San Marino, Serravalle, San Marino | San Marino | |||
19. | 5 tháng 9 năm 2020 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | Đan Mạch | UEFA Nations League 2020–21 | ||
20. | 8 tháng 9 năm 2020 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Iceland | |||
21. | 15 tháng 11 năm 2020 | Den Dreef, Leuven, Bỉ | Ba Lan |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]PSV
Napoli
Galatasaray
Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Eendracht Aalst: 2005-06
- Cầu thủ xuất sắc nhất giải hạng nhì Hà Lan năm 2009
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]- Hạng ba World Cup 2018
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b “Why Napoli's winger Dries Mertens should start for Belgium at the World Cup”. BeNeFoot. ngày 30 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ a b c “Everything you need to know about... Dries Mertens”. ngày 16 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Official: Utrecht Sign AGOVV Forward Dries Mertens”. Goal. ngày 25 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Forget Eden Hazard – Here's Who Arsenal Should Buy...”. Football Talk. ngày 25 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Talent Scout: Dries Mertens”. World Soccer. ngày 5 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “PSV agree deals for Utrecht duo Dries Mertens & Kevin Strootman”. Goal. ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “PSV thrash Excelsior to move into third”. The Daily Herald. ngày 28 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “PSV Eindhoven 7–1 Roda JC”. Goal. ngày 24 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ a b “Liverpool and Tottenham to battle over this Belgian international”. talkSPORT. ngày 12 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “PSV end Hercules fairytale to win cup”. FIFA. ngày 18 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012.
- ^ “VVV-Venlo - PSV (ngày 30 tháng 9 năm 2012)” (bằng tiếng Hà Lan). PSV. ngày 30 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “'Gemengde gevoelens' Brands na verkoop van Mertens” (bằng tiếng Hà Lan). Voetbal International. ngày 24 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Official: Dries Mertens joins Napoli”. Football Oranje. ngày 24 tháng 6 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Napoli 3–0 Bologna”. ESPNFC. ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Napoli keep pressure on Roma”. ESPNFC. ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Mertens brace beats Samp”. ESPNFC. ngày 6 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Leaders Juventus lost for only the second time in Serie A this season as they fell to defeat at Napoli”. BBC. ngày 30 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Insigne brace seals Coppa”. ESPNFC. ngày 3 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Europa League Team of the Week: Coleman & Mertens shine on Matchday One”. Goal.com. ngày 19 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2014.
- ^ “Mertens ghi bàn đẹp mắt, Napoli của Benitez đại thắng”. TTVH Online. ngày 12 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Napoli 3-2 Cesena”. BBC Sport. ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Champions League round-up: Dries Mertens stars for Napoli and Dynamo Kiev salvage draw at Besiktas”. Daily Mail Online. ngày 29 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
- ^ “Four debutants in Belgium selection”. UEFA.com. ngày 1 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Mertens aglow after Belgium floor Dutch”. Berend Scholten on UEFA.com. ngày 15 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Adnan Januzaj included in Belgium's World Cup squad”. BBC Sport. ngày 13 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Lukaku injured in late Belgium win”. ESPNFC. ngày 7 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ Chowdhury, Saj (ngày 17 tháng 6 năm 2014). “Belgium 2-1 Algeria”. BBC Sport. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Talent Scout – Dries Mertens”. Dutch Football League. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Belgium - D.Mertens - Profile with news, career statistics and history”. Soccerway. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2014.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênKNVB
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênJCS
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênCI1
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên2020-CI
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênCI
- ^ “CUMHURİYETİN YÜZÜ, TÜRKİYE'NİN EN BÜYÜĞÜ, ŞAMPİYON GALATASARAY!”. Galatasaray S.K. 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2023.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Website chính thức
- Thông tin về Dries Mertens trên trang web Goal.com
- Thông tin về Dries Mertens trên trang web Transfermarkt
- Dries Mertens tại Soccerbase
- Dries Mertens – Thành tích thi đấu tại UEFA
- Dries Mertens tại Soccerway
- Sinh năm 1987
- Người Flemish
- Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ
- Cầu thủ bóng đá SC Eendracht Aalst
- Cầu thủ bóng đá AGOVV Apeldoorn
- Cầu thủ bóng đá K.A.A. Gent
- Cầu thủ bóng đá FC Utrecht
- Cầu thủ bóng đá PSV Eindhoven
- Cầu thủ bóng đá S.S.C. Napoli
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014
- Tiền đạo bóng đá nam
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ bóng đá R.S.C. Anderlecht
- Cầu thủ bóng đá Serie A
- Vận động viên Vlaanderen
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hà Lan
- Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2018
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
- Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
- Cầu thủ bóng đá Eredivisie
- Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
- Cầu thủ bóng đá Süper Lig
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020